6 Lượt xem

Tin tức giáo dục

25 đại học Việt Nam góp mặt trong bảng xếp hạng đại học châu Á của QS

Theo công bố của tổ chức QS ngày 4/11, bảng xếp hạng đại học châu Á năm 2026 ghi nhận sự hiện diện của 25 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, con số cao nhất từ trước tới nay. So với kỳ xếp hạng trước, số lượng trường của Việt Nam tăng thêm 8 cơ sở, phản ánh rõ xu hướng hội nhập và từng bước nâng cao vị thế của giáo dục đại học Việt Nam trong khu vực.

Dẫn đầu các đại học Việt Nam là Đại học Quốc gia Hà Nội, xếp hạng 158 châu Á, tăng ba bậc so với năm trước. Xếp tiếp theo là Đại học Duy Tân ở vị trí 165, dù thứ hạng có điều chỉnh so với kỳ xếp hạng trước. Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh và Trường Đại học Tôn Đức Thắng lần lượt đứng ở các vị trí 175 và 231, tiếp tục duy trì sự hiện diện trong nhóm các đại học có thứ hạng khá của khu vực.

Một điểm nhấn đáng chú ý trong kỳ xếp hạng năm nay là bước tiến mạnh mẽ của Trường Đại học Văn Lang khi tăng tới 240 bậc, từ nhóm 491–500 lên vị trí 251, qua đó vươn lên nhóm 5 đại học Việt Nam có thứ hạng cao nhất tại châu Á. Trường Đại học Công nghệ TP Hồ Chí Minh (HUTECH), dù lần đầu tham gia xếp hạng, cũng đạt vị trí 287, trở thành cơ sở có thứ hạng cao nhất trong nhóm các trường mới được xếp hạng của Việt Nam.

Trường Đại học Văn Lang. Nguồn: VLU

Trong nhóm 300–400 châu Á, Việt Nam có sự góp mặt của Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh và Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh. Nhóm 400–500 ghi nhận các đại học có vai trò trụ cột vùng như Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế, Đại học Cần Thơ, cùng Trường Đại học Nguyễn Tất Thành.

Ở các nhóm thứ hạng tiếp theo, nhiều trường đại học có truyền thống đào tạo đa ngành và gắn với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội tiếp tục được xếp hạng, như Đại học Ngoại thương (cơ sở Hà Nội), Đại học Giao thông Vận tải, Đại học Mở TP Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Hà Nội, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Học viện Ngân hàng, Đại học Vinh và một số trường đại học kỹ thuật, nông – lâm nghiệp khác. Điều này cho thấy bức tranh xếp hạng của Việt Nam ngày càng đa dạng về loại hình, lĩnh vực đào tạo và mô hình phát triển.

TT Tên trường Thứ hạng 2025 Thứ hạng 2026
1 Đại học Quốc gia Hà Nội 161 158
2 Đại học Duy Tân 127 165
3 Đại học Quốc gia TP HCM 184 175
4 Đại học Tôn Đức Thắng 199 231
5 Đại học Văn Lang 491-500 251
6 Đại học Công nghệ TP HCM (Hutech) chưa xếp hạng 287
7 Đại học Bách khoa Hà Nội 388 315
8 Đại học Kinh tế TP HCM 369 318
9 Đại học Công nghiệp TP HCM 501-520 355
10 Đại học Nguyễn Tất Thành 333 437
11 Đại học Đà Nẵng 421-430 439
12 Đại học Huế 348 450
13 Đại học Cần Thơ 521-540 493
14 Đại học Ngoại thương (Hà Nội) chưa xếp hạng 580
15 Đại học Giao thông Vận tải 481-490 607
16 Đại học Mở TP HCM 710-750 721-730
17 Học viện Nông nghiệp Việt Nam chưa xếp hạng 781-790
18 Đại học Sư phạm Hà Nội 751-800 801-850
19 Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM 421-430 901-950
20 Đại học Nông Lâm TP HCM chưa xếp hạng 951-1000
21 Đại học Phenikaa chưa xếp hạng 951-1000
22 Đại học Thủy lợi chưa xếp hạng 1001-1100
23 Đại học Thương mại chưa xếp hạng 1101-1200
24 Học viện Ngân hàng chưa xếp hạng 1201-1300
25 Đại học Vinh 851-900 1201-1300

Bảng xếp hạng đại học châu Á năm 2026 của QS quy tụ hơn 1.500 trường đến từ 29 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các cơ sở được đánh giá dựa trên 11 tiêu chí, trong đó danh tiếng học thuật chiếm trọng số cao nhất (30%), tiếp theo là đánh giá của nhà tuyển dụng (20%). Các tiêu chí còn lại liên quan đến chất lượng đội ngũ giảng viên, năng lực nghiên cứu khoa học, mức độ quốc tế hóa và mạng lưới hợp tác nghiên cứu.

Đại học Quốc gia Singapore. Nguồn: NUS

Ở bình diện khu vực, top 10 châu Á tiếp tục do các đại học hàng đầu của Trung Quốc và Singapore chiếm ưu thế, bao gồm các đại học tại Hong Kong, Bắc Kinh, Thanh Hoa, Phúc Đán cùng Đại học Quốc gia Singapore và Đại học Công nghệ Nanyang. Đây cũng là nhóm trường có ảnh hưởng lớn tới các chuẩn mực xếp hạng, nghiên cứu và quốc tế hóa giáo dục đại học tại châu Á.

Việc 25 đại học Việt Nam được xếp hạng trong bảng xếp hạng châu Á của QS không chỉ mang ý nghĩa ghi nhận nỗ lực cải thiện chất lượng đào tạo và nghiên cứu, mà còn là cơ sở tham chiếu quan trọng cho quá trình hoạch định chiến lược phát triển hệ thống giáo dục đại học trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập ngày càng sâu rộng của khu vực.

NQD Edwards